Nếu bạn có nhu cầu được tư vấn, hỗ trợ về luật hình sự, hãy liên hệ ngay cho luật sư qua hotline 1900.6784. Luật sư can thiệp càng sớm, cơ hội bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp càng cao!
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì tội phạm là gì? Tội phạm hình sự và vi phạm hành chính có điểm gì khác nhau? Hãy theo dõi bài viết dưới đây của Luật Quang Huy, chúng tôi sẽ giúp bạn giải đáp.
1. Khái niệm tội phạm là gì?
Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự
Qua quy định trên, có thể thấy tội phạm có một số đặc điểm sau:
1.1. Tính nguy hiểm cho xã hội
Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất, quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Do có tính nguy hiểm cho xã hội nên hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự là tội phạm và phải bị xử lý hình sự.
Nguy hiểm cho xã hội bao gồm tính gây thiệt hại về khách quan và tính có lỗi về chủ quan. Trong đó, tính gây thiệt hại có nghĩa là gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đó là:
- Xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc;
- Xâm phạm chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;
- Xâm phạm quyền con người;
- Xâm phạm lĩnh vực khác của trật tự pháp luật.
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là thuộc tính khách quan. Một hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội hay không cũng như tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó ở mức độ nào chỉ phụ thuộc vào các yếu tố khách quan mà không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất kỳ ai.
Các yếu tố khách quan đó có thể là:
- Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại;
- Tính chất của hành vi khách quan, trong đó bao gồm cả thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện hành vi;
- Tính chất, mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra;
- Tính chất, mức độ lỗi;
- Tính chất của động cơ, mục đích phạm tội.
1.2. Tính được quy định trong bộ luật hình sự
Tính được quy định trong bộ luật hình sự là dấu hiệu phải có ở hành vi bị coi là tội phạm.
Việc xác định được quy định trong bộ luật hình sự là dấu hiệu của tội phạm không những là cơ sở đảm bảo cho việc chống tội phạm được thống nhất, tránh tuỳ tiện mà còn là động lực thúc đẩy cơ quan lập pháp phải kịp thời bổ sung, sửa đổi luật theo sát sự thay đổi của tình hình tội phạm.
Tính được quy định trong bộ luật hình sự tuy chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức pháp lý, phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu về mặt nội dung của tội phạm nhưng vẫn có tính độc lập tương đối.
Được quy định trong bộ luật hình sự có nghĩa đầy đủ là:
- Tội phạm cần được đặt tên;
- Tội phạm phải được mô tả cụ thể.
1.3. Về tội phạm cần được đặt tên
Về kỹ thuật, tên tội (tội danh) cần chính xác, có tính hệ thống, ngắn gọn và đúng về ngữ học.
Ví dụ: Tội trộm cắp tài sản (Điều 173); tội trốn thuế (Điều 200) hoặc tội bắt cóc con tin (Điều 301).
Về tội phạm phải được mô tả cụ thể
Sự mô tả tội phạm trong luật được khoa học luật hình sự gọi là cấu thành tội phạm. Có các loại cấu thành tội phạm sau:
(1) Dựa vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm thì cấu thành tội phạm được phân thành:
- Cấu thành tội phạm cơ bản: Là cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội – dấu hiệu mô tả tội phạm và cho phép phân biệt tội phạm này với tội khác cũng như cho phép phân biệt với trường hợp chưa phải là tội phạm;
- Cấu thành tội phạm tăng nặng: Là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể (so với trường hợp bình thường). Những dấu hiệu này được gọi là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng. Như vậy, cấu thành tội phạm tăng nặng là tổng hợp cấu thành tội phạm cơ bản với dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng;
- Cấu thành tội phạm giảm nhẹ: Là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một cách đáng kể (so với trường hợp bình thường). Những dấu hiệu này được gọi là dấu hiệu định khung hình phạt giảm nhẹ. Như vậy, cấu thành tội phạm giảm nhẹ là tổng hợp cấu thành tội phạm cơ bản với dấu hiệu định khung hình phạt giảm nhẹ.
(2) Dựa vào đặc điểm cấu trúc trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm thì cấu thành tội phạm được phân thành:
- Cấu thành tội phạm vật chất: Là cấu thành tội phạm mà trong đó có các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi khách quan và hậu quả thiệt hại do hành vi gây ra. (Để xác định hậu quả thiệt hại do hành vi gây ra cần phải chứng minh giữa hành vi khách quan và hậu quả thiệt hại có quan hệ nhân quả với nhau. Ví dụ: cấu thành tội phạm của tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 180) là cấu thành tội phạm vật chất vì trong điều luật có sự mô tả hậu quả thiệt hại cho tài sản của người khác trị giá từ 100.000.000 đồng…;
- Cấu thành tội phạm hình thức: Là cấu thành tội phạm mà trong đó dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi khách quan mà không có dấu hiệu hậu quả thiệt hại. Ví dụ: cấu thành tội phạm của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 255) là cấu thành tội phạm hình thức vì điều luật không mô tả hậu quả thiệt hại…
- Cấu thành tội phạm cắt xén: Là cấu thành tội phạm mà trong mặt khách quan chỉ có dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng dấu hiệu hành vi không phải là phản ánh chính hành vi phạm tội. Loại cấu thành tội phạm này được quy định tại Điều 109 – Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.
1.4. Do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
Chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Đó là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự (Điều 12) và không thuộc trường hợp mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi do mắc bệnh (Điều 21).
Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực pháp lý được Nhà nước xác định và thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước.
1.5. Tính có lỗi
Đây là đặc điểm xác định chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Khi xác định có lỗi (cố ý hoặc vô ý) là một dấu hiệu của tội phạm cùng với dấu hiệu nguy hiểm cho xã hội.
1.6. Đặc điểm phải bị xử lý hình sự
Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định bổ sung đặc điểm phải bị xử lý hình sự trong định nghĩa khái niệm tội phạm tại Điều 8.
Phải bị xử lý hình sự có nghĩa là bất cứ hành vi phạm tội nào, có tính nguy hiểm cho xã hội ra sao cũng đều bị xử lý hình sự.
2. Ví dụ về vi phạm hình sự
D (20 tuổi) là công dân cư trú tại khu vực biên giới, lợi dụng việc này, ngày 21/05/2021 D đã mua ma túy của một người đàn ông Trung Quốc (không rõ tên, địa chỉ) với giá 8.000 nhân dân tệ và đem số ma túy về chia nhỏ để bán cho các đối tượng nghiện trong xã.
Ngày 25/5/2021 lực lượng chức năng đã bắt quả tang đối tượng về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm: 147,64 gam hêrôin, 13,5 triệu đồng, 1 cân điện tử và 2 điện thoại di động.
Hành vi của D có đủ các yếu tố cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự. Cụ thể:
2.1. Thứ nhất: Về khách thể
Hành vi của D đã xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ là sức khỏe, tính mạng của con người trước những tác hại của ma túy và chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước ở tất cả các khâu của quá trình quản lý.
2.2. Thứ hai: Về mặt khách quan
Ma túy là chất tuyệt đối bị cấm sử dụng trong đời sống xã hội. Hành vi mua bán ma túy của D là vi phạm pháp luật. Việc D mua ma túy từ một người Trung Quốc và bán lại cho những người dân trong xã sẽ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và tính mạng, sức khỏe của người dân.
Về hành vi mua bán chất ma túy của D: D đã thực hiện hành vi mua ma túy của một người đàn ông Trung Quốc (không rõ tên, địa chỉ) với giá 8.000 nhân dân tệ và sau đó đem số ma túy về chia nhỏ để bán cho các đối tượng nghiện trong xã.
Về thời gian, địa điểm phạm tội: Hành vi phạm tội của D diễn ra vào ngày 21/05/2021, tại khu biên giới giữa Việt Nam và trung Quốc.
2.3. Thứ ba: Về mặt chủ quan
D thực hiện hành phạm tội với lỗi cố ý. D nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Theo đó, D đã lợi dụng nhà mình ở khu vực biên giới để mua ma túy với người Trung Quốc và đem về bán lại cho những người trong xã.
Về mục đích phạm tội: Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội cố ý. Trong trường hợp này D thực hiện hành vi với đích kiếm tiền từ hoạt động bán ma túy.
2.4. Thứ tư: Về chủ thể
Chủ thể của tội phạm là cá nhân, cụ thể là D (20 tuổi).
Hành vi của D đủ các yếu tố cấu thành tội phạm nên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự.
3. Phân loại tội phạm thế nào?
Dựa vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tội phạm được phân thành 04 loại: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Cụ thể, Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định phân loại tội phạm như sau:
STT | Loại tội phạm | Tính chất và mức độ nguy hiểm | Mức cao nhất của khung hình phạt |
1 | Tội phạm ít nghiêm trọng | Có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn.
|
|
2 | Tội phạm nghiêm trọng | Có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn. | Từ trên 03 năm – đến 07 năm tù. |
3 | Tội phạm rất nghiêm trọng | Có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn. | Từ trên 07 năm – đến 15 năm tù.
|
4 | Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng | Có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn. |
|
4. Các dấu hiệu của tội phạm
Để xác định một hành vi có phải là tội phạm hay không thì cần phải xét xem hành vi đó có đủ các dấu hiệu để cấu thành tội phạm hay không. Các dấu hiệu của tội phạm cụ thể như sau:
4.1. Thứ nhất: Tính nguy hiểm cho xã hội
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là dấu hiệu đầu tiên để xác định được hành vi đó có phải là tội phạm hay không.
- Tính nguy hiểm cho xã hội thể hiện ở việc gây thiệt hại hoặc tạo ra nguy cơ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội;
- Trong đó các quan hệ xã hội là đối tượng bảo vệ của luật hình sự;
- Tính nguy hiểm cho xã hội là một thuộc tính quan trọng và cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định các dấu hiệu và được thể hiện thông qua hành vi nguy hiểm cho xã hội.
4.2. Thứ hai: Tính có lỗi
Lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra.
Lỗi thể hiện dưới các dạng sau:
- Cố ý;
- Vô ý.
Đây là một dấu hiệu rất quan trọng trong cấu thành tội phạm. Mục đích của áp dụng hình phạt là trừng phạt người có lỗi chứ không phải trừng phạt hành vi. Trong bộ luật hình sự Việt Nam thì nguyên tắc có lỗi được coi là nguyên tắc cơ bản. Người chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam không phải chỉ đơn thuần vì người này có hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội mà còn vì đã có lỗi trong thực hiện hành vi khách quan đó.
Ví dụ: Người nào thực hiện hành vi giết người theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 sẽ có lỗi cố ý. Bởi vì khi thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng người khác, người phạm tội nhận thức rõ hành động của mình tất yếu hoặc có thể gây cho nạn nhân chết và mong muốn hoặc bỏ mặc cho nạn nhân chết.

4.3. Thứ ba: Tính trái pháp luật
Căn cứ theo điều 2 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về trách nhiệm hình sự như sau:
- Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một trong các tội sau của Bộ luật hình sự mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Điều 188. Tội buôn lậu
- Điều 189. Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới
- Điều 190. Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm
- Điều 191. Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
- Điều 192. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả
- Điều 193. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm
- Điều 194. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh
- Điều 195. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi
- Điều 196. Tội đầu cơ
- Điều 200. Tội trốn thuế
- Điều 203. Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
- Điều 209. Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán
- Điều 210. Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán
- Điều 211. Tội thao túng thị trường chứng khoán
- Điều 213. Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm
- Điều 216. Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
- Điều 217. Tội vi phạm quy định về cạnh tranh
- Điều 225. Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan
- Điều 226. Tội xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp
- Điều 227. Tội vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên
- Điều 232. Tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản
- Điều 234. Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã
- Điều 235. Tội gây ô nhiễm môi trường
- Điều 237. Tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường
- Điều 238. Tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông
- Điều 239. Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam
- Điều 242. Tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản
- Điều 243. Tội hủy hoại rừng
- Điều 244. Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm
- Điều 245. Tội vi phạm quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên
- Điều 246. Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại
- Điều 300. Tội tài trợ khủng bố
- Điều 324. Tội rửa tiền
Như vậy, bất cứ hành vi nào không được quy định là một tội trong bộ luật hình sự thì việc thực hiện hành vi đó đều không phải là tội phạm.
4.4. Thứ tư: Tính phải chịu hình phạt
Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Chỉ những hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, hình phạt được coi là cơ chế răn đe, giáo dục đối với người phạm tội.
Ví dụ: Theo Khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 thì người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Pháp luật có quy định rất rõ ràng về mức hình phạt mà người phạm tội phải chịu khi vi phạm.
5. Phân biệt tội phạm hình sự và vi phạm hành chính
Khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định: Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính và tội phạm đều là các hành vi vi phạm pháp luật và cùng phải chịu trách nhiệm pháp lý tương ứng với mức độ, tính chất hành vi vi phạm. Tuy nhiên, đây là hai khái niệm khác nhau mà nhiều người vẫn còn đang nhầm lẫn.
Cùng theo dõi một số điểm khác biệt cơ bản giữa tội phạm và vi phạm hành chính sau:
STT | Tiêu chí | Tội phạm | Vi phạm hành chính | |
1 | Dấu hiệu cấu thành | Chủ thể | Gồm cá nhân và pháp nhân thương mại.
Cá nhân:
Pháp nhân thương mại: Phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm quy định tại một trong các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300 và 324 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. |
Là cá nhân, tổ chức, trong đó:
Cá nhân:
Tổ chức: Cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế… |
Khách thể | Là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. | Là các quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật hành chính bảo vệ, thường là quy tắc về an toàn giao thông, an ninh trật tự,… | ||
Mặt chủ quan | Gồm:
|
Gồm lỗi cố ý và lỗi vô ý. | ||
Mặt khách quan | Là tổng hợp tất cả những biểu hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại bên ngoài thế giới khách quan.
Các biểu hiện bên ngoài của tội phạm tạo thành mặt khách quan của tội phạm bao gồm:
|
Mặt khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan của vi phạm hành chính bao gồm:
Hành vi vi phạm hành chính;
|
||
2 | Chế tài xử lý | Bằng các chế tài hình sự như: cảnh cáo, phạt tiền, trục xuất, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân,… | Bằng các chế tài hành chính như: Cảnh cáo, phạt tiền,… | |
3 | Trình tự, thủ tục xử lý | Được xử lý bằng trình tự, thủ tục tố tụng hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự | Được xử lý bằng trình tự, thủ tục xử lý vi phạm hành chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính.. |
6. Cơ sở pháp lý
- Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
- Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Trên đây là bài tư vấn của chúng tôi về vấn đề tội phạm là gì theo quy định pháp luật hiện hành. Qua bài viết này, chúng tôi mong rằng sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Để được tư vấn đầy đủ và chính xác nhất, mời quý khách hàng liên hệ tới Tổng đài tư vấn Luật hình sự trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để nhận tư vấn thêm về vấn đề mà quý khách hàng đang gặp phải.
Trân trọng./.