Các trường hợp quyết định không khởi tố vụ án hình sự

Nếu bạn có nhu cầu được tư vấn, hỗ trợ về luật hình sự, hãy liên hệ ngay cho luật sư qua hotline 1900.6784. Luật sư can thiệp càng sớm, cơ hội bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp càng cao!

Không phải trường hợp nào cũng bị khởi tố hình sự, trường hợp phạm tội mà có căn cứ không khởi tố vụ án hình sự thì sẽ không bị khởi tố. Cụ thể pháp luật quy định như thế nào, mời bạn theo dõi bài viết sau đây của Luật Quang Huy để được làm rõ.


1. Khởi tố vụ án hình sự là gì?

Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu của quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền có nhiệm vụ sử dụng các biện pháp của tố tụng hình sự để xác định có hay không dấu hiệu phạm tội, trên có sở đó sẽ ra một trong hai quyết định: khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự.


2. Các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự

Theo quy định tại Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021, các trường hợp không khởi tố vụ án hình sự bao gồm các trường hợp sau:

  • Không có sự việc phạm tội;
  • Hành vi không cấu thành tội phạm;
  • Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
  • Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
  • Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
  • Tội phạm đã được đại xá;
  • Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
  • Tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.

Theo đó, căn cứ không khởi tố vụ án hình sự cụ thể gồm:

2.1. Không có sự việc phạm tội

Không có sự việc phạm tội là trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận một sự việc nhưng qua kiểm tra, xác minh thì sự việc đó không thỏa mãn các dấu hiệu tội phạm được quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, không có cơ sở để khởi tố vụ án hình sự.

Cơ quan chức năng có thẩm quyền khởi tố tiếp nhận các thông tin tố giác tội phạm, tin báo cơ quan, những sự việc được xét là tội phạm, hoặc trên các trang thông tin đại chúng. Tuy nhiên để xem xét sự việc đó có dấu hiệu phạm tội hay không, cơ quan có thẩm quyền phải qua một bước kiểm tra, xác minh theo quy định pháp luật, sau đó mới có thể ra quyết định khởi tố vụ án hay không khởi tố vụ án.

Trong thực tế, có thể do nhầm lẫn của người tố giác, do sơ suất của cơ quan có thẩm quyền khi tiếp nhận thông tin vụ việc, hay tin báo của cơ quan, mặc dù sự việc đó có diễn ra tuy nhiên nếu xem xét kỹ thì sự việc đó không có dấu hiệu tội phạm. Cũng có những trường hợp do ghen ghét ngoài xã hội mà người tố giác cố ý cung cấp thông tin vu khống, giả mạo.

Ví dụ: bà Nguyễn Thị A tố giác ông Nguyễn Văn B có hành vi dùng tay, chân gây thương tích cho bà, tuy nhiên qua xác minh xác định thương tích của bà A do bà tự té ngã chứ ông B không hề có bất kỳ hành vi nào gây thương tích cho bà A. Do đó, căn cứ không có sự việc phạm tội được áp dụng khi có sự nhầm lẫn, giả tạo hay vu khống của của người tố giác.

Tóm lại, không có sự việc phạm tội là không có sự việc nào xảy ra hoặc sự việc xảy ra không phải sự việc phạm tội. Trong trường hợp này, với bất kỳ lý do nào cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự cũng không được ra quyết định khởi tố vụ án.

2.2. Hành vi không cấu thành tội phạm

Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cho một tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Hành vi không cấu thành tội phạm là hành vi của người hoặc pháp nhân nào đó không thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Để xác định là có tội phạm cụ thể nào đó, hành vi được xem xét phải có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành một tội phạm trong một điều luật cụ thể của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Trên thực tế, có những hành vi có một số dấu hiệu giống như tội phạm, thậm chí có một số dấu hiệu đã được quy định trong cấu thành tội phạm cụ thể nào đó nhưng không đầy đủ.

Ví dụ: Nguyễn Văn T 19 tuổi trộm cắp chiếc xe đạp nhưng định giá xe đạp chỉ 1.000.000 đồng nên không đủ định lượng quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, do đó hành vi trộm cắp của Tèo không đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản, cơ quan chức năng không được khởi tố bị can T.

Tóm lại, trong trường hợp hành vi xảy ra không thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền không được ra quyết định khởi tố vụ án.

2.3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Theo đó, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào các điều kiện khách quan, chủ quan của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội; điều kiện kinh tế, xã hội, truyền thống pháp luật của mỗi quốc gia; được quy định trong luật hình sự và được khẳng định trên cơ sở giấy khai sinh, sổ đăng ký khai sinh và các bằng chứng xác thực khác.

Các giấy tờ phản ánh ngày sinh của người đang bị xem xét vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự phải đủ độ tin cậy. Nếu có nghi ngờ thì phải trưng cầu giám định về tuổi.

2.4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật

Theo quy định tại Điều 14 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021, nguyên tắc của pháp luật tố tụng hình sự là không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. Do đó, khi hành vi phạm tội đã được kết án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật như:

  • Những bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm;
  • Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
  • Những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm phải ban hành quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

Bên cạnh đó, quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật cũng là một căn cứ không khởi tố vụ án hình sự. Bởi lẽ, quyết định đình chỉ vụ án là quyết định tố tụng do Viện kiểm sát quyết định trong giai đoạn truy tố và do Tòa án ban hành trong giai đoạn xét xử làm chấm dứt hoạt động tố tụng giải quyết vụ án.

Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay sau khi cơ quan có thẩm quyền ban hành. Mặt khác, căn cứ đình chỉ vụ án cũng là căn cứ không khởi tố vụ án hình sự theo Điều 248, 282 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021.

Do đó, khi phát hiện những tố giác, tin báo đã được đình chỉ vụ án thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo phải ban hành quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

Tóm lại, nếu trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, cơ quan có thẩm quyền xác định được những tố giác, tin báo đó đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật thì ban hành quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

2.5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được hiểu là thời hạn pháp luật cho phép cơ quan có thẩm quyền được tiến hành các hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Cụ thể, theo quy định tại Điều 27 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

  • 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
  • 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;
  • 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
  • 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
  • Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện.
  • Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 27 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật tths quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.
  • Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 27 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.

Như vậy, nếu một người có hành vi được cấu thành tội phạm nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong thời hạn luật định (trừ trường hợp tội phạm cố tình bỏ trốn hoặc bị truy nã), sau khi hết hiệu lực pháp luật về truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh đó thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Do đó, việc xác định được đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là căn cứ không khởi tố vụ án hình sự.

2.6. Tội phạm đã được đại xá

Đại xá là một biện pháp khoan hồng đặc biệt của Nhà nước, do Quốc hội quyết định mà nội dung của nó là tha hoàn toàn đối với hàng loạt người phạm tội đã phạm một hoặc một số loại tội phạm nhất định. Văn bản đại xá thường được ban hành khi có sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng của đất nước.

Hình thức đại xá và mức độ đại xá được ghi rõ trong văn bản Quốc Hội ban hành. Những hành vi phạm tội được đại xá được ghi rõ trong văn bản đại xá và phải xảy ra trước khi văn bản đại xá được ban hành. Những hành vi phạm tội được đại xá thì không được khởi tố vụ án hình sự. Nếu vụ án được đại xá đang trong quá trình khởi tố, điều tra, xét xử sẽ được đình chỉ.

2.7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác

Mục đích của việc áp dụng trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người phạm tội là nhằm giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Mục đích đó chỉ có thể đạt được nếu áp dụng đối với người còn sống.

Do vậy, trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố mà xác định được người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác.

Các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự
Các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự

2.8. Tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết không yêu cầu khởi tố

Các tội này bao gồm:

  • Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
  • Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;
  • Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
  • Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
  • Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính;
  • Tội hiếp dâm;
  • Tội cưỡng dâm;
  • Tội làm nhục người khác;
  • Tội vu khống.
  • Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.

Theo đó, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ được khởi tố vụ án hình sự về những tội nêu trên khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

Nếu bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết không yêu cầu khởi tố thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không được khởi tố vụ án hình sự.


3. Thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự

Theo quy định tại Điều 163 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021, thẩm quyền ra thông báo không khởi tố vụ án hình sự bao gồm:

  • Cơ quan điều tra của Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
  • Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự.
  • Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.
  • Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.
  • Việc phân cấp thẩm quyền điều tra như sau:
  • Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực;
  • Cơ quan điều tra cấp tỉnh điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phạm tội có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra;
  • Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cấp quân khu hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp khu vực nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra;
  • Cơ quan điều tra Bộ Công an, Cơ quan điều tra Bộ Quốc phòng điều tra vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại; vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều quốc gia nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra.

4. Ý nghĩa của căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự

Mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định những căn cứ khởi tố vụ án hình sự nhưng trong thực tế vẫn có những trường hợp do nhiều lý do khác nhau đã khởi tố vụ án hình sự không đúng với quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.

Do giới hạn giữa khởi tố và không khởi tố vụ án đối với nhiều hành vi trong thực tiễn là rất khó xác định, dễ nhầm lẫn khi phân tích để áp dụng pháp luật. Đã có không ít trường hợp, việc khởi tố không chính xác đã mang lại những hậu quả xấu cho công dân và xã hội.

Nhằm phòng ngừa việc khởi tố vụ án hình sự một cách thiếu chính xác, không đúng căn cứ pháp luật, tạo thuận lợi cho công dân cũng như cán bộ công chức của các cơ quan áp dụng pháp luật dễ dàng nhận ra những trường hợp không đủ căn cứ để khởi tố vụ án.


5. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
  • Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021.

Trên đây là bài tư vấn của chúng tôi về vấn đề căn cứ không khởi tố vụ án hình sự. Qua bài viết này, chúng tôi mong rằng sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này.

Để được tư vấn đầy đủ và chính xác nhất, mời quý khách hàng liên hệ tới Tổng đài tư vấn Luật tố tụng hình sự trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để nhận tư vấn thêm về vấn đề mà quý khách hàng đang gặp phải.

Trân trọng./.

5/5 - (1 bình chọn)
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
phone-call

GỌI HỎI MIỄN PHÍ NGAY

Scroll to Top
Mục lục