Nếu quá mệt mỏi với thủ tục ly hôn, bạn có thể sử dụng dịch vụ ly hôn của Luật Quang Huy. Luật sư sẽ hỗ trợ bạn ly hôn nhanh chỉ trong O1 ngày, hỗ trợ cả các trường hợp vắng mặt và thiếu giấy tờ. Liên hệ ngay hotline 1900.6816 hoặc 09.678910.86 để được tư vấn miễn phí nhé!
Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định rất rõ về nguyên tắc hôn nhân tự nguyện.
Tức là việc kết hôn hay chấm dứt quan hệ hôn nhân tùy thuộc vào ý chí tự nguyện của hai bên nam nữ.
Và khi mà một bên hoặc cả hai không còn muốn tiếp tục quan hệ hôn nhân đó thì có thể yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu ly hôn của mình.
Việc ly hôn là hoàn toàn tự nguyện, không ai được cản trở, cưỡng ép ly hôn.
Tuy nhiên, có phải mọi trường hợp người chồng đều được yêu cầu ly hôn hay không?
Người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp nào?
Để giải đáp thắc mắc này, Luật Quang Huy cung cấp thông tin trong bài viết dưới đây.
1. Quyền yêu cầu ly hôn
Hiến pháp năm 2013 đề cao quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Trong đó, Điều 36 quy định rất rõ về quyền của nam, nữ khi xác lập quan hệ hôn nhân:
Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
Theo quy định này, nam nữ có quyền tự do kết hôn.
Và khi quan hệ hôn nhân đã được xác lập thì vợ chồng có quyền được yêu cầu ly hôn nếu không còn muốn tiếp tục sống chung nữa.
Việc giải quyết ly hôn thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và tôn trọng nhau.
Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về người có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn, cụ thể:
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Như vậy, những người có quyền yêu cầu ly hôn theo quy định nêu trên bao gồm:
- Vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng;
- Cha, mẹ, người thân thích của một bên vợ, chồng bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình và đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra
Những chủ thể nêu trên có quyền yêu cầu ly hôn khi có căn cứ theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Quy định này nhằm đảm bảo nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, theo ý chí của các bên.
Việc quy định các chủ thể đặc biệt như cha, mẹ, người thân thích của một bên vợ, chồng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn nếu:
Một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ gây ra cũng là hợp lý, để bảo vệ cho một bên vợ, chồng khi bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần mà không thể tự bảo vệ mình.
2. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp nào?
Từ quy định nêu trên, có thể thấy, mỗi bên vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, không ai được cản trở, cưỡng ép yêu cầu ly hôn đó.
Tuy nhiên, có phải mọi trường hợp các chủ thể nêu trên đều được tự do yêu cầu ly hôn không?
Có trường hợp nào người chồng hay người vợ bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn không?
Vấn đề này được pháp luật quy định cụ thể tại khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:
Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Theo quy định này, trong thời gian người vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì người chồng bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn.
Nếu người chồng có yêu cầu ly hôn trong khoảng thời gian đó mà không có sự đồng ý của người vợ thì Tòa án sẽ bác đơn ly hôn.
Quy định này đặt ra nhằm bảo vệ quyền lợi của người vợ và đứa trẻ, dù có xảy ra mâu thuẫn nghiêm trọng như thế nào thì vẫn có sự hỗ trợ, chăm sóc từ người chồng trong thời gian khó khăn đó.
Như vậy, quy định trên chỉ hạn chế quyền yêu cầu ly hôn đơn phương của người chồng trong thời gian vợ đang mang thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Bên cạnh đó, không có quy định nào hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người vợ.
Người chồng vẫn có thể đồng thời là người yêu cầu ly hôn trong thời gian này nếu người vợ đồng ý ly hôn và vợ chồng thỏa thuận được với nhau các vấn đề về quyền nuôi con và chia tài sản chung của vợ chồng, đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên và các con.
3. Căn cứ pháp lý
- Hiến pháp năm 2013
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Trên đây là toàn bộ câu trả lời của chúng tôi cho thắc mắc liên quan tới việc người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp nào.
Để được tư vấn cụ thể hơn về các vấn đề liên quan, bạn vui lòng liên hệ Tổng đài luật sư tư vấn ly hôn trực tuyến 24h qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được hỗ trợ.
Ngoài ra, nếu có nhu cầu ly hôn nhanh, bạn có thể sử dụng dịch vụ ly hôn của chúng tôi tại đây:
Trân trọng./.