Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định
Nếu bạn có nhu cầu được tư vấn, hỗ trợ về luật hình sự, hãy liên hệ ngay cho luật sư qua hotline 1900.6784. Luật sư can thiệp càng sớm, cơ hội bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp càng cao!

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là gì?

Quy định pháp luật về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như thế nào?

Bài viết dưới đây của Luật Quang Huy sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về quy định của luật đối với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:


Tổng quan về bài viết

1. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là gì?

Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là các tình tiết làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, là căn cứ để tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội (trong phạm vi một khung hình phạt) so với các trường hợp phạm tội tương tự khác nhưng không có tình tiết tăng nặng đó.


2. Quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

Theo quy định ở khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bao gồm 14 tình tiết.

Việc sắp xếp thứ tự các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không phải theo tính chất quan trọng, tính chất nghiêm trọng ít hay nhiều của chúng mà căn cứ vào sự khác nhau về tính chất giữa các tình tiết đó với nhau trong hệ thống danh mục các tình tiết.

Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định

2.1 Thứ nhất, phạm tội có tổ chức

Là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm (khoản 3 Điều 20 Bộ luật hình sự).

Đây là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện một tội phạm, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.

Phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia. Trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu.

Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào vai trò của từng người tham gia vào tội phạm và quy mô của vụ án.

Người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm (người tổ chức) mức độ tăng nặng nhiều hơn người giúp sức trong vụ án phạm tội có tổ chức.

Vì vậy, khi quyết định hình phạt, khi đã xác định có người tổ chức thì mức hình phạt nhất thiết không thể thấp hơn người thực hành, người xúi giục hoặc người giúp sức nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau.

2.2 Thứ hai, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp

Tòa án sẽ áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:

  • Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xoá án tích;
  • Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.

2.3 Thứ ba, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội

Là tội phạm xảy ra là do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi phạm tội đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ.

Chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện tội phạm một cách dễ dàng.

Tuy nhiên, người phạm tội có việc lợi dụng chức vụ để phạm tội thì mới bị coi là có tình tiết tăng nặng.

Nếu tội phạm do họ thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn thì cũng không bị coi là có tình tiết tăng nặng này.

2.4 Thứ tư, phạm tội có tính chất côn đồ

Hiện nay, chưa có bất cứ một văn bản nào hướng dẫn cụ thể về tình tiết tăng nặng “phạm tội có tính chất côn đồ”, dù nó được quy định là tình tiết định khung cấu thành tội phạm tăng nặng đối với tội “Giết người” và tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”.

Một số thẩm phán, kiểm sát viên cho biết cơ quan tố tụng thường hiểu phạm tội có tính chất côn đồ là trường hợp phạm tội chỉ vì những nguyên cớ nhỏ nhặt hoặc vô cớ, thể hiện tính coi thường pháp luật, xem thường tính mạng, sức khỏe của người khác.

Nhưng cũng có ý kiến cho rằng bị cáo có nhân thân xấu, có nhiều tiền án, tiền sự, khi phạm tội thể hiện tính hung hăng, càn quấy thì phải coi là có tính chất côn đồ…

2.5 Thứ năm, phạm tội vì động cơ đê hèn

Phạm tội vì động cơ đê hèn là phạm tội với động cơ đê tiện, thấp hèn, ích kỷ, thể hiện sự bội bạc, phản trắc, hèn nhát.

Ví dụ: giết vợ/chồng của mình để lấy người khác hay giết người đã có thai với mình nhằm trốn tránh trách nhiệm,…

2.6 Thứ sáu, cố tình thực hiện tội phạm đến cùng

Là quyết tâm thực hiện ý định phạm tội của mình, mặc dù có sự can ngăn của người khác hoặc có những cản trở khác trong quá trình thực hiện tội phạm, thể hiện sự quyết tâm phạm tội cao, thực hiện bằng được tội phạm.

Điều này không phụ thuộc vào việc người phạm tội có đạt được mục đích phạm tội hay không.

Có trường hợp, người phạm tội không đạt được mục đích vẫn có thể bị coi là cố tình thực hiện tội phạm đến cùng.

Có trường hợp, người phạm tội có quyết tâm phạm tội, nhưng lại không phải là cố tình thực hiện tội phạm đến cùng vì trong quá trình thực hiện tội phạm, họ không bị sự cản trở nào hoặc sự cản trở đó không đáng kể.

Ví dụ: A có ý định đầu độc B, nên đã hai lần sang nhà B để bỏ thuốc độc vào thức ăn nhà B nhưng vẫn không có điều kiện. Đến lần thứ ba lợi dụng lúc B vắng nhà, A đã bỏ thuốc độc vào giếng nước nhà B làm cho gia đình B bị ngộ độc năm người, trong đó B bị nặng nhất dẫn đến tử vong.

Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào quyết tâm thực hiện tội phạm và những cản trở mà kẻ phạm tội vấp phải.

Nếu quyết tâm càng cao, cản trở càng lớn mà can phạm vẫn cố tình thực hiện tội phạm thì mức độ tăng nặng càng nhiều.

2.7 Thứ bảy, phạm tội 02 lần trở lên

Tình tiết này trước đây trong Bộ luật Hình sự năm 1999 được ghi nhận là “phạm tội nhiều lần” (điểm g khoản 1 Điều 48).

Theo xu hướng cụ thể hóa các quy định trong Bộ luật Hình sự, các nhà làm luật đã sửa đổi thành “phạm tội 02 lần trở lên”.

Về nội dung, ý nghĩa của tình tiết này hoàn toàn không có sự thay đổi, chỉ khác biệt về cách diễn đạt.

Phạm tội từ 02 lần trở lên được hiểu là trước lần phạm tội này, người phạm tội đã thực hiện tội phạm ít nhất một lần trước đó và chưa bị xét xử.

Hành vi phạm tội lần này là sự lặp lại tội mà người đó đã phạm trước đó nên thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp bình thường.

Mức độ tăng nặng của tình tiết này tùy thuộc vào số lần phạm tội trước đó cũng như tính chất mức độ nghiêm trọng của tội phạm mà người đó đã thực hiện trong từng lần.

2.8 Thứ tám, tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm

Tái phạm, tái phạm nguy hiểm là trường hợp phạm tội khi đã bị kết án và chưa được xóa án tích về tội phạm nhất định

Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:

  • Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
  • Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.

2.9 Thứ chín, phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên

Do phạm tội đối với các đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt nên đã xâm phạm đến chính sách bảo vệ bà mẹ, trẻ em, người già hoặc xâm phạm nghiêm trọng đến đạo đức xã hội và nguyên tắc nhân đạo trong quan hệ xã hội nên trường hợp phạm tội này có mức độ nguy hiểm cao hơn so với trường hợp phạm tội đối với đối tượng bình thường.

2.10 Mười, phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác

2.11 Mười một, lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội:

Lợi dụng tình trạng khẩn cấp để phạm tội là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng tình trạng khẩn cấp trong đời sống xã hội để thực hiện hành vi phạm tội (như lợi dụng việc hoả hoạn để chiếm đoạt tài sản của người khác, lợi dụng người khác đang bị cấp cứu trên giường bệnh để chiếm đoạt tài sản của họ…).

Mức độ tăng nặng của tình tiết này phụ thuộc vào ý thức lợi dụng và tính chất mức độ của hành vi phạm tội khi lợi dụng tình

Lợi dụng hoàn cảnh thiên tai để phạm tội là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng thiên tai để thực hiện tội phạm. Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào mức khó khăn nhiều hay ít do thiên tai gây ra và ý thức lợi dụng của người phạm tội đối với khó khăn đó.

Lợi dụng dịch bệnh để phạm tội là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng những khó khăn do dịch bệnh gây nên để thực hiện tội phạm.

Dịch bệnh là một bệnh truyền nhiễm tràn lan, làm cho nhiều người, nhiều gia súc mắc phải, trong đó có thể có những bệnh nguy hiểm như HIV, dịch hạch, dịch tả nhưng cũng có những bệnh không nguy hiểm như dịch cúm, dịch sốt sét…

Mức độ tăng nặng của tình tiết này phụ thuộc vào tính chất và mức độ của hành vi lợi dụng dịch bệnh để thực hiện hành vi phạm tội của người phạm tội.

Người phạm tội phải có ý thức lợi dụng những khó khăn đặc biệt của xã hội để phạm tội thì mới coi là tình tiết tăng nặng. Nếu không có sự lợi dụng thì không thuộc tình tiết tặng nặng này.

Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự ở tình tiết này là phụ thuộc vào mức độ lợi dụng nhiều hay ít và khó khăn cụ thể của xã hội lúc họ thực hiện tội phạm.

2.12 Mười hai, dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác phạm tội hoặc thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người

Dùng thủ đoạn xảo quyệt trong khi phạm tội là người phạm tội có những mánh khoé, cách thức gian dối, thâm hiểm làm cho người bị hại hoặc những người khác khó lường thấy được để đề phòng.

Dùng thủ đoạn tàn ác trong khi phạm tội là người phạm tội có những mánh khoé, cách thức độc ác một cách tàn nhẫn, hoặc gây tác hại cho hàng loạt người không chút thương xót (như tra tấn cho tới chết,…)

Người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác phải dùng trong khi thực hiện tội phạm, nếu thủ đoạn này xảy ra sau khi tội phạm đã hoàn thành thì không thuộc trường hợp phạm tội có tình tiết tăng nặng này.

Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của tình tiết này tuỳ thuộc vào tính chất mức độ xảo quyệt, tàn ác của thủ đoạn mà kẻ phạm tội đã thực hiện.

Thủ đoạn càng nham hiểm tinh vi, tàn nhẫn bao nhiêu thì mức tăng nặng càng nhiều và ngược lại.

Thủ đoạn mà người phạm tội thực hiện chỉ cần có khả năng gây nguy hại cho nhiều người đã bị coi là tình tiết tăng nặng, không cần sự nguy hại đó có thực sự xảy ra hay không.

Ví dụ: Để đầu độc một người, kẻ phạm tội đã bỏ thuốc độc xuống giếng nước uống của gia đình người này, nhưng gia đình của nạn nhân đã phát hiện nên không ai bị ngộ độc.

2.13 Mười ba, xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội

Xúi giục người chưa thành niên phạm tội, là hành vi của một người đã kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người chưa đủ 18 tuổi thực hiện tội phạm.

Người xúi giục có thể tham gia trong một vụ án có tổ chức hoặc chỉ phạm tội riêng lẻ. Ví dụ: một người muốn giết người khác bằng thuốc độc. Họ đã dụ dỗ một em 12 tuổi bỏ thuốc độc vào thức ăn của người mà họ định giết.

Vì người phạm tội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên người xúi giục được coi như kẻ thực hành tội phạm và hành vi phạm tội của họ vẫn bị coi là tăng nặng trong tình tiết này.

Nếu người bị xúi giục là người chưa thành niên, nhưng đã đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì tuỳ thuộc vào từng trường hợp có thể là người cầm đầu hoặc chỉ là người xúi giục.

Nếu người xúi giục lại phạm tội có tổ chức thì họ phải chịu cả hai tình tiết tăng nặng là phạm tội có tổ chức và xúi giục người chưa thành niên phạm tội. Mức tăng nặng của tình tiết này phụ thuộc vào số người bị xúi giục và độ tuổi bị xúi giục.

2.14 Mười bốn, có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm

Hành động xảo quyệt, là những việc làm gian dối một cách thâm hiểm, khó mà lường thấy được. Hành động hung hãn, là kẻ phạm tội có hành vi rất dữ tợn, phá phách, đánh giết người để tẩu thoát.

Hành động xảo quyệt hoặc hung hãn của bị cáo là nhằm mục đích trốn tránh, che giấu tội phạm.

Những hành động này cản trở hoạt động tư pháp của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, làm cho tội phạm mà bị cáo thực hiện khó bị phát hiện hoặc có nguy cơ khó phát hiện.

Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào tính chất và mức độ xảo quyệt, hung hãn mà bị cáo thực hiện sau khi phạm tội.

Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.


3. Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

Theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trên phải là những tình tiết không phải là dấu hiệu định tội hay định khung cho một tội khác, những tình tiết tăng nặng này chỉ được áp dụng khi không được quy định trong cấu trúc của các điều luật.

Về việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong hoạt động tố tụng thể hiện trong văn bản tố tụng là bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân.

Tuy nhiên trong quá trình thi hành không có quy định nào quy định việc áp dụng các tình tiết tăng nặng thì tội danh tội danh nặng hơn.

Do đó trong quá trình áp dụng cần có văn bản hướng dẫn để có có cách hiểu và áp dụng thống nhất hơn với các tình tiết tăng nặng khi truy cứu trách nhiệm hình sự.

Cần hiểu đúng, đủ nội dung của các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 và Điều 52 Bộ luật Hình sự để áp dụng nó vào tình huống thực tế một cách hợp lý.

Nếu bạn quá khó khăn trong vấn đề xác định hoặc áp dụng như thế nào, bạn có thể liên hệ cho Luật Quang Huy qua tổng đài 19006588 để được hỗ trợ chi tiết.

Khi áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cần lưu ý những vấn đề sau đây:

3.1 Thứ nhất, xác định đúng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

Mỗi tình tiết tăng nặng có mức độ tăng nặng khác nhau. Ngay đối với cùng một tình tiết cũng có tính chất, mức độ tăng nặng khác nhau.

Vậy nên, phải hiểu tính chất, mức độ tăng nặng, giảm nhẹ khác nhau là phải xác định trong mỗi tình tiết đó thì trường hợp nào nghiêm trọng hơn trường hợp nào.

3.2 Thứ hai, cần phân biệt các tình tiết tăng nặng với các tình tiết là dấu hiệu định tội

Các tình tiết là dấu hiệu định tội là những tình tiết mà nếu không có nó thì hành vi không cấu thành tội phạm hoặc nếu có, thì nó cấu thành tội phạm khác nghiêm trọng hơn (nếu là tình tiết tăng nặng) hoặc ít nghiêm trọng hơn (nếu là tình tiết giảm nhẹ).

Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ nói tới các tình tiết tăng nặng, còn tình tiết là dấu hiệu định tội có thể không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Lén lút là dấu hiệu định tội trộm cắp tài sản, nhưng nó không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Yêu cầu của việc phân biệt trong trường hợp này không phải là phân biệt hai tình tiết với nhau, tình tiết nào là dấu hiệu định tội, còn tình tiết nào là tình tiết tăng nặng, mà sự phân biệt ở đây là khi một tình tiết nào đó được quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, mà tình tiết đó đã là dấu hiệu định tội rồi thì khi quyết định hình phạt không được coi tình tiết đó là tình tiết tăng nặng nữa.

3.3 Thứ ba, cần phân biệt các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự với các tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt

Các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt là những tình tiết mà nhà làm luật dự định nếu có thì Tòa án phải áp dụng ở khung hình phạt mà điều luật quy định có tình tiết đó đối với người phạm tội. Ví dụ: Một người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới là thuộc trường hợp phạm tội quy định tại điểm d khoản 2 Điều 189 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” trong trường hợp phạm tội cụ thể này đã là dấu hiệu định khung hình phạt, nên khi quyết định hình phạt, Tòa án không được áp dụng tình tiết này là tình tiết tăng nặng đối với bị cáo nữa.

Các tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt thực chất là dấu hiệu cấu thành tội phạm, nhưng nó là dấu hiệu của cấu thành khác loại (cấu thành tăng nặng hoặc cấu thành giảm nhẹ).

Về cấu thành tội phạm, khoa học luật hình sự chia ra làm ba loại: Cấu thành cơ bản, cấu thành tăng nặng và cấu thành giảm nhẹ.

Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

Cấu thành cơ bản là cấu thành không có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Ví dụ: Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Tội trộm cắp tài sản).

Loại cấu thành này, về cơ bản đã bao hàm đầy đủ những yếu tố cấu thành Tội trộm cắp tài sản (chủ thể, khách thể, mặt khách quan và mặt chủ quan), tức là một người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt, hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Cấu thành tăng nặng là cấu thành nếu có một hoặc một số tình tiết khác ngoài những tình tiết đã được quy định trong cấu thành cơ bản và những tình tiết này làm cho tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nguy hiểm hơn so với trường hợp không có tình tiết này, cấu thành tăng nặng bao giờ cũng có khung hình phạt nặng hơn so với cấu thành cơ bản.

Ví dụ, khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Tội trộm cắp tài sản) là cấu thành cơ bản có khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm và là tội phạm ít nghiêm trọng.

Nhưng nếu người phạm tội lại có hành vi hành hung để tẩu thoát thì thuộc trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là cấu thành tăng nặng, có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm và là tội nghiêm trọng.

Cấu thành giảm nhẹ là cấu thành nếu có một hoặc một số tình tiết khác ngoài những tình tiết đã được quy định trong cấu thành cơ bản và những tình tiết này làm cho tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội ít nguy hiểm hơn so với trường hợp không có tình tiết này, cấu thành giảm nhẹ bao giờ cũng có khung hình phạt nhẹ hơn so với cấu thành cơ bản. Ví dụ, khoản 1 Điều 119 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Tội chống phá cơ sở giam giữ) là cấu thành cơ bản có khung hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Nhưng nếu người phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng thì thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 119 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là cấu thành giảm nhẹ, có khung hình phạt từ 03 năm đến 10 năm tù.

Tuy nhiên, không phải điều luật nào cũng bao gồm cả cấu thành tăng nặng hoặc cấu thành giảm nhẹ, mà tùy thuộc vào mỗi tội phạm và chính sách hình sự của nhà nước trong việc xử lý từng loại tội phạm. Đa số các tội quy định trong BLHS có cấu thành tăng nặng, chỉ có một số tội có cấu thành giảm nhẹ (chủ yếu là các tội xâm phạm an ninh quốc gia).

Các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ đã là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ khi quyết định hình phạt nữa.

3.4 Thứ tư, chỉ được phép tăng hình phạt trong một khung hình phạt

Điều luật quy định khung hình phạt có mức tối thiểu và tối đa tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của từng tội phạm. Khi đã xác định bị cáo phạm tội ở khung hình phạt nào, dù có nhiều tình tiết tăng nặng thì họ cũng không bị xử phạt quá mức cao nhất của khung hình phạt đó.

Ví dụ: Bị cáo phạm tội sản xuất hàng giả thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có khung hình phạt từ 05 năm đến 10 năm.

Tòa án không được xử phạt bị cáo trên 10 năm tù, dù họ có nhiều tình tiết tăng nặng ở Điều 52. Trường hợp xử phạt dưới 05 năm tù, Tòa án phải nêu được lý do và phải tuân theo những quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.


Nếu nội dung về việc áp dụng các tình tiết áp dụng tăng nặng trách nhiệm hình sự của chúng tôi có phần phức tạp, sau khi đọc xong, bạn vẫn chưa có thể hiểu trường hợp của bạn, người thân hay bạn bè của bạn có bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không hay nếu có sẽ ảnh hưởng đến hình phạt như thế nào, hãy gọi ngay qua Tổng đài 19006588.

Luật Quang Huy luôn có đội ngũ chuyên viên, Luật sư sẵn sàng hỗ trợ cho bạn.

Chúng tôi có những Luật sư từng đảm nhiệm vị trí Thẩm phán, cũng có những Luật sư đã biện hộ cho rất nhiều vụ án lớn nhỏ trên cả nước.

Do vậy, Luật Quang Huy có thể đảm bảo tư vấn, hỗ trợ cho bạn!


4. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
  • Công văn 212/TANDTC-PC năm 2019;
  • Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP.

Trên đây là toàn bộ nội dung về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Qua bài viết này chúng tôi mong rằng sẽ giúp bạn dễ hình dung hơn về vấn đề này.

Luật Quang Huy là công ty có kinh nghiệm không chỉ trong việc tư vấn luật Hình sự mà còn có bề dày kinh nghiệm trong vai trò là Luật sư biện hộ cho nhiều vụ án Hình sự trong cả nước.

Nếu còn điều gì chưa rõ, cần hỗ trợ, các bạn có thể liên hệ tới Tổng đài tư vấn luật hình sự trực tuyến của Luật Quang Huy qua HOTLINE 19006588.

Trân trọng./.

5/5 - (1 bình chọn)

TÁC GIẢ BÀI VIẾT

Luật sư Tạ Gia Lương
Luật sư Tạ Gia Lương
Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Phú Thọ. Nguyên là Chánh tòa hình sự tòa án nhân dân Tỉnh Phú Thọ, có gần 30 năm kinh nghiệm xét xử các vụ án lớn nhỏ.
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
phone-call

GỌI HỎI MIỄN PHÍ NGAY

Scroll to Top

Tổng quan về bài viết

Mục lục